Lịch sử hình thành Nhà_hát_Chèo_Thái_Bình

Nếu như Hà Nội (với 3 Nhà hát Chèo Việt Nam, Hà NộiQuân đội) là cái nôi của nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo thì Thái Bình được xem là cái nôi của phong trào hát chèo quần chúng. Trước Cách mạng tháng Tám số phường gánh hội chèo Thái Bình nở rộ khá đông đảo được hình thành, phát triển từ yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm trong các hội làng, số phường gánh lớn mạnh thường gắn kết với số lễ hội có lịch sử lâu dài trong vùng thông qua những ước định về cúng tế lễ tiết hòa vào vô số ràng buộc của tín ngưỡng tập quán bản địa. Với ba vùng chèo: chèo Hà Xá, chèo Sáo Đền, chèo Khuốc, cùng với các nghệ nhân hát hay, diễn giỏi nổi tiếng: cụ Trùm Thịnh, cụ Lý Mầm, cụ Cả Tam, cả Ngũ, bác Năm Ngũ… chèo Thái Bình đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước.[2] Thống kê tới năm 2015 cho thấy Thái Bình cùng với Ninh Bình là 2 tỉnh sinh ra nhiều nghệ sĩ nhân dân hát chèo nhất với 5 NSND mỗi tỉnh.

Đoàn Chèo Thái Bình, thành lập theo quyết định của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Bình. Nghệ thuật biểu diễn theo dòng chèo Khuốc, với các nghệ nhân như bác Na, bác Phụ. Những vở diễn chính: "Quan Âm Thị Kính", "Suý Vân", "Cô gánh hàng hoa", "Cô gái làng chèo". Năm 1986, đoàn được cử đi biểu diễn ở Bungari, Hungari và Tiệp Khắc nhân Tuần lễ văn hoá Việt Nam tổ chức ở các nước đó. Nghệ sĩ Ưu tú tiêu biểu: Mạnh Tường, Thuý Hiền.

Cho đến nay nghệ sỹ ưu tú Đình Cương là nghệ sỹ được đông đảo quần chúng yêu mến và biết đến không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài.